Hiến Pháp Hai Không 13 Quy Định

Hiến Pháp Hai Không 13 Quy Định

VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; (khoản 3, Điều 1); khẳng định “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3), và “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước (không chỉ) bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (mà còn) và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khoản 1 Điều 4 Hiến pháp 2013 xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Tại khoản 2, Điều 4 của Hiến pháp 2013 đã ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; tại khoản 3 Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp 2013 bổ sung một điểm mới rất quan trọng về nguyên tắc đó là: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3, Điều 1). Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền XHCN, nhằm mục đích để giúp các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực nhà nước trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ của các cơ quan nhà nước nói trên. Hiến pháp 2013 quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Về đường lối đối ngoại của nước ta hiện nay, Điều 12 Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Hiến pháp 2013 đã quy định rõ, tách bạch giữa quyền con người với quyền và nghĩa vụ của công dân. Con người, Nhân dân được đặt vào trung tâm của Hiến pháp, khẳng định “nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Hiến pháp 2013 khẳng định các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. (Điều 14).  “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 15). QUỐC HỘI Điều 69 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.  Về Đại biểu Quốc hội, Điều 82: “1. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu; có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội. 2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. 3. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội”. CHỦ TỊCH NƯỚC Đối với chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp mới quy định từ Điều 86 đến Điều 93, Điều 86: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Điều 87: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước”.  Điều 88: Chủ tịch nước có 6 nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó khoản 3 của Điều này quy định như sau: Chủ tịch nước “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định đại xá;”   CHÍNH PHỦ Điều 94: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 96 Hiến pháp quy định Chính phủ có 08 nhiệm vụ và quyền hạn. Trong đó, khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96). Về mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước:  Hiến pháp cũng phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết định trong một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển KT-XH của đất nước, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…, còn Chính phủ có thẩm quyền ban hành các chính sách cụ thể, biện pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực); phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế… CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Về Chính quyền địa phương:  Điều 111: “1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Luật Chính quyền địa phương sẽ quy định cụ thể việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt sau khi có Tổng kết thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quân, phường”. Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương: Điều 112 Hiến pháp quy định: “1. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.  3. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”.  Hội đồng nhân dân, Điều 113 Hiến pháp quy định: “1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. 2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND”. Uỷ ban nhân dân, Điều 114 Hiến pháp quy định: “1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. 2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao”.

Tìm hiểu quy định về chế độ chính trị trong Hiến pháp năm 2014

(ĐCSVN) - Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Hiến pháp mới năm 2013 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/1/2014. Hiến pháp mới với nhiều nội dung mới, chứa đựng hàm lượng khoa học sâu sắc, tính chân thực, chính xác, rõ ràng. Bản Hiến pháp mới đã toát lên sức sống mới, tinh thần mới, rất sinh động, sáng tạo; phản ánh đúng đắn tình hình thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua muôn ngàn chông gai, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nội dung mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm theo dõi, của nhiều người cả ở trong nước và bạn bè quốc tế, thậm chí cả các thế lực thù địch vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh, sự sống còn của quốc gia, dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một số điều khoản khác trong bản Hiến pháp mới có quan hệ mật thiết với các nội dung xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội khóa XIII ấn nút thông qua Hiến pháp sửa đổi ngày 28/11/2013. Ảnh:vietnamnet.vn Điều 2 (Chương I) Hiến pháp mới ghi rõ: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều 3 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Hiến pháp là Văn kiện chính trị pháp lý cơ bản nhất, thiêng liêng nhất và quan trọng nhất, đồng thời khẳng định quyền làm chủ của Nhân dân và Nhân dân là chủ thể trong xây dựng và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ðể thực hiện được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới như Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đề ra, nhiệm vụ hết sức quan trọng, trực tiếp hiện nay là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội khóa XIII ấn nút thông qua Hiến pháp sửa đổi ngày 28/11/2013. Ảnh:vietnamnet.vn

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan nhà nước do mình trực tiếp bầu ra; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước mà ở đó các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thống nhất và có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền đó; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do một đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu bằng nhà nước. Ðảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Vì vậy, chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng- an ninh, đối nội và đối ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và Nhân dân ta.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở Đảng, Nhà n­ước ta phải thực hành dân chủ. Ng­ười khẳng định: N­ước ta là n­ước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ, Trung ­ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ­ương đến xã do dân tổ chức nên. Quyền hành và lực l­ượng đều ở nơi dân[1]. Nhà n­­ước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, m­­ưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà n­­ước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải đ­­ược thực hiện một cách công bằng, dân chủ văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất n­­ước trong t­­ương lai.

Trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực, tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức hoạt động của Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước, giảm bớt các mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác xây dựng pháp luật được tăng cường. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước, các công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Hoạt động giám sát tình hình và kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước được đẩy mạnh, chất lượng được nâng lên. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ từng bước được sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tinh gọn; các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ được điều chỉnh, đổi mới, tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý vĩ mô, giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng, tách khỏi quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Cải cách hành chính được chú trọng, nhất là ở những lĩnh vực có quan hệ tới đời sống của nhân dân và hoạt động của doanh nghiệp, bước đầu đạt được một số kết quả. Cải cách tư pháp được đẩy mạnh. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp được đổi mới.v..v....

Tuy nhiên, công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đánh giá chung của Chính phủ còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, thống nhất. Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt còn yếu. Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, còn nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã gây ra những khó khăn, cản trở, làm hạn chế sự phát triển và thành tựu của đất nước, trong một số lĩnh vực còn tạo nên bức xúc xã hội. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta xác định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do Nhân dân dân, vì Nhân dân” là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong 8 phương hướng cơ bản mà Ðảng và nhân dân ta cần phải quán triệt, thực hiện tốt để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Cương lĩnh đề ra. Ðồng thời, Cương lĩnh còn xác định rõ bản chất và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Ðây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Nghị quyết Ðại hội XI đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời gian thực hiện nhiệm kỳ Ðại hội XI. Yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phải bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; Nhà nước phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành để thật sự bảo đảm đúng nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðồng thời, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội.

Các cơ quan Nhà nước từ Trung ương cho đến các cấp, các ngành ở địa phương nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp mới 2013. Theo đó, kịp thời rà soát, điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thông qua việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới năm 2013.

Trước hết, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Ðổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là Cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; nhất là cải tiến, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ; thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh. Hoàn chỉnh chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp... Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; nghiên cứu tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo.

Thứ hai, tăng c­ường vai trò lãnh đạo và đổi mới ph­ương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đáp ứng đ­ược những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất n­ước theo định h­ướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đ­ược thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 84 năm khẳng định và được xác định tại Điều 4 Hiến pháp mới nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà n­ước và xã hội là điều kiện để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà n­ước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đư­a đất n­ước ta từng b­ước v­ượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để nhân dân thực sự phát huy được quyền làm chủ thì vấn đề cốt tử hiện nay phải ra sức xây dựng, củng cố hệ thống chính trị một cách đồng bộ; đặc biệt là đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng c­ường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội, đồng thời xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà n­ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả cao.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức ở từng vị trí công tác. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là "ng­ười đầy tớ thật trung thành của nhân dân", toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là nhân tố "cốt lõi" bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng Nhà nư­ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, cùng với việc nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi d­ưỡng đội ngũ công chức Nhà nư­ớc có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính Nhà nư­ớc, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý… Thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức theo các ngạch, bậc; tổ chức tốt việc đào tạo và thi tuyển, sát hạch, sàng lọc, bổ nhiệm theo chức danh.

Thứ tư, tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm bằng các giải pháp đồng bộ: hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; thực hiện công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài sản do tham nhũng mà có. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của nhân dân, của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Ðể thực hiện được mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới như Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đề ra, nhiệm vụ hết sức quan trọng, trực tiếp hiện nay của Ðảng và nhân dân ta là xây dựng, hoàn thiện tổ chức chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương. Thực hiện Chỉ thị 03CT/TW của Bộ Chính trị về "tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay.

Ngày nay, tr­ước yêu cầu của công cuộc đổi mới, tr­ước âm mư­u chống phá, chia rẽ của kẻ thù giữa Đảng với dân, với Nhà n­ước, hòng làm biến chất Nhà n­ước, tiến tới thủ tiêu và xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất n­ước ta, đây thực sự là một nguy cơ và thách thức mới. Đúng nh­ư V.I. Lênin đã dạy: “Giành chính quyền đã khó, song giữ chính quyền càng khó hơn”. Nhưng với niềm tin cách mạng vào Đảng quang vinh và Nhân dân vĩ đại, dù phải v­ượt qua muôn vàn thử thách khó khăn chúng ta nhất định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà n­ước ta mãi mãi là Nhà n­ước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân./.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập.5, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr. 698.